James Holmes
05-10-2011
Quan điểm cho rằng Mỹ nên bỏ mặc Đông Nam Á cho Trung Quốc là đặt không đúng chỗ. Châu Á không phải là một Georgia khác, theo James Holmes.
Vài tháng trước, trên tạp chí Foreign Policy, một đồng nghiệp của tôi là Giáo sư Lyle Goldstein đã so sánh Biển Đông (nguyên văn: Biển Hoa Nam) ngày nay với cuộc chiến Nga – Georgia năm 2008. Tóm lại, ông ấy vẫn giữ quan điểm, rằng Mỹ thật dại dột khi đặt cược uy tín vào một đồng minh chiến lược cấp ba xa xôi và yếu kém, nằm cạnh bên một đất nước hùng mạnh hơn nhiều lần vốn đang thèm khát lãnh thổ và sự phụ thuộc chính trị. Chính quyền Bush đã dồn dập dành cho Tbilisi “sự quan tâm cấp cao và các cố vấn quân sự“, để rồi chỉ thốt ra mỗi tiếng ‘rên rỉ’ khi Moscow ra lệnh cho các lực lượng thiết giáp đè bẹp quân đội Georgia và xâm chiếm phần lớn đất nước láng giềng này. Uy tín của Mỹ đã bị tổn hại nặng nề khi nước này không thể đảo ngược kết quả. Đứng về phía Georgia rõ ràng là một sự thất bại trong việc liều lĩnh chính sách ngoại giao.
Ông Lyle đã vẽ ra một bức tranh u ám. Nếu các nhà lãnh đạo Mỹ chú ý đến lời khuyên của ông, họ sẽ từ bỏ gần như tất cả các cam kết ở Đông Nam Á, nơi mà ông mô tả là một khu vực có tầm quan trọng không đáng kể, cạnh bên một nước Trung Quốc ngày càng hùng mạnh. Ông cho rằng “Đông Nam Á chẳng có chút ý nghĩa nào trong sự cân bằng quyền lực toàn cầu“. Nếu không thì Washington có nguy cơ phải chịu thất bại ngoại giao mới mà không đạt được lợi ích nào có thể hiểu được.
Cũng như chính quyền Bush không có “ham muốn gì khi đánh liều một cuộc xung đột lớn hơn với Moscow về một đất nước thuộc lợi ích chiến lược bên rìa“, chính quyền Obama sẽ không, thực ra là không nên ràng buộc vận mệnh của mình với các nước Đông Nam Á yếu kém. Điều này sẽ thêm vào lời cảnh báo chống lại sự ủng hộ các nước bạn bè nhưng “không quan trọng” vốn đang đấu tranh ở thế bất lợi. Mỹ không nên cố gắng thực hiện các nỗ lực hão huyền nhằm đảo ngược tình hình. Tốt hơn là nên giũ bỏ những vướng bận không cần thiết trong khi hợp tác với Bắc Kinh để chống cướp biển và khủng bố trong khu vực, với hy vọng xây dựng một mối quan hệ tin cậy trên biển.
Nếu đây là một lời khẩn cầu thẳng thắn để Washington tránh bị vướng vào những tranh chấp lãnh hải phức tạp đang gây bất ổn chính trị khu vực, tôi sẽ ủng hộ ngay lập tức. Như người phương Nam chúng ta thường nói, Mỹ không “quan tâm” đến việc ai sẽ kiểm soát đảo, san hô hay đảo đá nào, miễn là cường quốc kiểm soát chúng tôn trọng tự do hàng hải theo đúng luật pháp thông thường và thỏa thuận. Do vậy, vấn đề tranh luận giữa các quan chức Mỹ đó là, mối quan tâm duy nhất của Hoa Kỳ trong chủ đề tranh cãi này là tự do hàng hải đi qua các vùng biển trong khu vực và thấy những cuộc cãi vã về lãnh thổ được giải quyết mà không phải dùng đến vũ lực.
Nhưng vẫn chưa rõ liệu Trung Quốc có tôn trọng luật biển hoặc kiềm chế sử dụng vũ lực hay không. Nước này liên tục tuyên bố “chủ quyền không thể chối cãi” ở các vùng biển và không phận quốc tế nằm trong những đường nào đó trên bản đồ Biển Đông. Trung Quốc cũng nỗ lực ngăn chặn những hoạt động bay, giám sát quân sự, và khảo sát quân sự ở những khu vực chung, như các nước ven biển có thể thực hiện ở “những vùng lãnh hải” của họ.
Vùng lãnh hải này là vành đai biển 12 dặm ngoài khơi, nơi mà chính phủ ở các nước ven biển thực hiện đầy đủ quyền thực thi pháp lý. Các quốc gia ven biển không có quyền thống lĩnh những vùng biển xa hơn, ngay cả khi luật pháp quốc tế cho họ đặc quyền thực thi pháp lý đối với nguồn tài nguyên nhiên nhiên ở vùng biển và đáy biển cách bờ 200 dặm (xa hơn nếu địa hình dưới nước cho phép). Washington hoàn toàn đúng khi chống lại sự xâm lấn lén lút của Trung Quốc dựa trên quyền của các nước đi biển.
Sự tương tự của Biển Đen không làm thay đổi điều này, chủ yếu vì các động lực ở đó hoàn toàn khác biệt so với những gì phổ biến ở Biển Đông ngày nay. Theo tôi, tình huống phải vượt qua ba cuộc kiểm tra về sự tương đồng giữa Nga – Georgia thì mới phù hợp. Thứ nhất, phải đưa một nước lớn đấu với một nước nhỏ về lợi ích ngoại biên của Mỹ. Thứ hai, sự bất đối xứng trong sức mạnh quân sự phải tới mức mà bên mạnh hơn có thể thực hiện một việc đã rồi, chế ngự đối thủ yếu hơn trước khi Mỹ và cộng đồng quốc tế có thể tập trung quyết tâm và vũ lực để can thiệp. Và thứ ba, khoảng cách từ các lực lượng Mỹ tới nơi xảy ra xung đột phải xa tới mức Washington không thể triển khai lực lượng kịp thời để tạo ra một sự khác biệt. Quân đội Mỹ sẽ thiếu các căn cứ ở phía trước để sắp xếp và duy trì vũ khí gần chiến trường. Thật may, Biển Đông hoàn toàn không không đáp ứng bất kỳ cuộc kiểm tra nào như thế này.
Trước tiên, cân nhắc sự chênh lệch về sức mạnh giữa Trung Quốc và các nước láng giềng nhỏ hơn. Rõ ràng là Trung Quốc áp đảo bất kỳ quốc gia Đông nam Á nào trong một cuộc đấu nhau một chọi một, và với sự cách biệt khá lớn. Chẳng hạn, Chính phủ Philippines đã quyết định gia tăng gấp đôi ngân sách quốc phòng của nước này, lên tới 2,5 tỷ USD. Quân đội Mỹ sẽ tiêu tốn cỡ đó vào con tàu sắp tới, tàu khu trục có tên lửa điều khiển, loại Arleigh Burke. Ngược lại, Trung Quốc dành 91,5 tỷ USD trong năm nay, theo các con số chính thức, và con số này có thể ít hơn so với thực tế. Số tiền chi tiêu này nhiều gấp 36 lần ngân sách của Philippines. Một dữ kiện khác: gần đây Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ đã chuyển tàu tuần tra, loại Hamilton, năm 1967, cho phía Philippines. Con tàu tuần tra này đã trở hành niềm tự hào của Hải quân Philippines, thay thế con tàu khu trục hộ tống, được chế tạo cho Hải quân Mỹ thời Đệ nhị Thế chiến. Điều này cho thấy rõ sự yếu kém của Manila trên biển. Không có gì phải ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo Philippines đã phải viện đến hiệp ước phòng thủ chung Mỹ – Philippines với hy vọng dụ dỗ Washington ủng hộ các tuyên bố lãnh hải của họ. Họ cần sự giúp đỡ.
Đơn giản là lực lượng vũ trang Philippines không thể đọ với những hạm đội mà các cơ quan giám sát hàng hải của Trung Quốc triển khai, huống hồ gì những hạm đội viễn dương ở các xưởng đóng tàu mà Hải quân Trung Quốc hiện đang đóng. Giáo sư Goldstein đã đề cập đến phần nhiều thực tế là Bắc Kinh dựa vào “các tàu tuần tra không vũ trang” do các cơ quan phi quân sự triển khai “để thực thi các tuyên bố chủ quyền của nước này ở Biển Đông“. Đây “rõ ràng là một dấu hiệu” rằng Trung Quốc “không muốn leo thang thành xung đột vũ trang“. Tất nhiên, Bắc Kinh không muốn leo thang, biến các tranh chấp lãnh thổ thành xung đột quân sự. Điều mà một chính phủ ôn hòa muốn phát triển mà không có chiến tranh, hoàn thành các mục tiêu đã đề ra mà không gặp phải hậu quả ngoài ý muốn kèm theo chiến tranh là gì? Bằng cách triển khai những con tàu để bảo vệ các tuyên bố của mình, Bắc Kinh ra hiệu thực tế là, đơn giản nước này đang thực hiện chính sách chủ quyền trên biển. Nước này muốn gắn các tuyên bố với tính hợp pháp. Nhưng nếu các nước Đông nam Á kiên quyết phản đối, chắc chắn là Trung Quốc sẽ cử các tàu của Hải quân Trung Quốc tới thực thi ý muốn của họ. Như cựu Thủ tướng Singapore, ông Lý Quang Diệu dự đoán, “đằng sau những con tàu tuần tra nhỏ này là hải quân viễn dương” nếu các cơ quan thi hành luật của Trung Quốc không thể hoàn thành nhiệm vụ.
Điểm rộng hơn là Đông Nam Á giữ vai trò còn quan trọng hơn cả lợi ích cận biên đối với Mỹ. Sự tương phản này hầu như không lộ rõ hơn giữa Biển Đông nằm ở vị trí chiến lược với Biển Đen hẻo lánh. Biển Đen có thể đúng là một vùng biển chết đối với chính sách của Mỹ. Điều này dường như nằm ngoài suy nghĩ của Goldstein, người cho rằng tự do hàng hải “đã trở thành một trụ cột chính trong chính sách của Mỹ tại khu vực” và rằng điểm được cho là mấu chốt này “trên thực tế khá là vô lý”. Nhưng tự do của các vùng biển này không phải là một khái niệm mới lạ nào đó. Nó đã là một trụ cột của chính sách ngoại giao Mỹ trong nhiều thập niên qua. Trang web của Bộ Ngoại giao Mỹ đã chỉ ra một cách hữu ích rằng Chương trình Tự do Hàng hải có từ thời Carter hồi cuối những năm 1970. Kể từ đó, các chính quyền kế tiếp nhau thuộc cả hai đảng chính trị đều từ chối “đồng ý với những hành động đơn phương của các nước khác nhằm hạn chế các quyền và sự tự do của cộng đồng quốc tế về hàng hải, việc bay trên các vùng trời và việc sử dụng các vùng biển khơi có liên quan khác”.
Ngăn cản các quốc gia ven biển khỏi việc vây chiếm các phần của chung toàn cầu, gây hại cho tự do trên biển, chẳng thể là vô lý. Chương trình Tự do Hàng hải “hoạt động trên một một lộ trình bộ tam, bao gồm không chỉ những thể hiện về ngoại giao và sự quyết đoán về hành động của các đơn vị quân đội Mỹ mà còn cả những tham vấn đa phương và song phương với các chính phủ khác trong một nỗ lực nhằm thúc đẩy sự ổn định hàng hải và tuân thủ luật pháp quốc tế. Bộ máy quân sự và ngoại giao Mỹ thường phản đối các tuyên bố quá thể, luôn có một cách để củng cố luật pháp quốc tế theo thời gian nếu không có đối thủ. Bộ Ngoại giao đã nhiều lần đưa ra phản đối với các chính phủ vi phạm. Các đơn vị Hải quân Mỹ đã chủ ý vượt qua những giới tuyến được vẽ sai trên bản đồ, phát đi một thông điệp rằng Washington phản đối những giới tuyến đó.
Nếu tự do hàng hải gần đây mới trở thành một vấn đề nóng bỏng ở Biển Đông thì đó là bởi vì những xác nhận của Trung Quốc về “chủ quyền không thể chối cãi” đối với gần như toàn bộ vùng biển này là một điều khá mới mẻ. Chỉ trong năm 2009, Trung Quốc đã gửi một bản đồ lên Liên Hợp Quốc mô tả các tuyên bố chủ quyền trên biển của họ. “Đường 9 đoạn” được vạch ra trên bản đồ bao gần như trọn Biển Đông. Trong năm 2010, các quan chức Trung Quốc hiển nhiên gọi vùng biển đó là một “lợi ích quốc gia cốt lõi” – một lợi ích mà Trung Quốc sẵn sàng sử dụng vũ lực để giữ gìn. Ngoại trưởng Hillary Clinton đã nhanh chóng phản ứng rằng Washington có một “lợi ích quốc gia” về tự do hàng hải qua các vùng biển trong khu vực. Nhưng bà Clinton chỉ nhắc lại các mục tiêu chính sách của Mỹ đã được định rõ từ hàng chục năm trước.
Thật khó để mà phóng đại tầm quan trọng của Biển Đông đối với chiến lược hàng hải của Mỹ. Chiến lược Phối hợp Hải lực Thế kỷ 21 năm 2007, thông điệp quyền lực nhất của các cơ quan hàng hải Mỹ về cách thức họ nhìn nhận môi trường chiến lược và dự định hưởng ứng điều đó, chỉ rõ khu vực Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương (trong đó có Vịnh Ba Tư) là những sân khấu trung tâm để sử dụng sức mạnh cứng của Hải quân Mỹ.
Biển Đông nằm giữa đường nối giữa hai sân khấu này. Nó là một cửa ngõ không chỉ cho tàu buôn mà còn cả cho các hải quân, tạo thuận lợi về diễn tập chiến lược của các lực lượng Mỹ. Quân đội Mỹ được triển khai chủ yếu dọc các rìa phía đông và phía tây của lục địa Á Âu, ở Bahrain, Nhật Bản và Guam. Các lực lượng vượt biển phải “di chuyển nhịp nhàng” giữa hai đại dương, tập trung đương đầu với các sự kiện bất ngờ nảy sinh ở một hoặc hai nơi này. Nếu bị chặn một lối đi qua Biển Đông, quân Mỹ sẽ buộc phải đi vòng xuống phía nam, quanh các quần đảo Indonesia và Philippines. Sự lanh lẹ của cường quốc hải quân Mỹ ở sân khấu lớn “Indo – Thái Bình Dương” sẽ phải chịu cảnh tương tự, làm giảm tính hiệu quả chiến lược của Mỹ.
Thứ hai, vẫn có một câu hỏi để mở rằng liệu Bắc Kinh có phô sức mạnh để làm mất tinh thần các nước láng giềng nhanh tới mức đặt Mỹ vào một sự việc đã rồi. Goldstein dường như có quan điểm nước đôi về sức mạnh hải quân Trung Quốc. Một mặt, ông mô tả Hải quân PLA là yếu đuối tới mức nước này phải tái bố trí các tàu ngầm cùng cùng nhiều tài sản khác tới Biển Đông nhằm tránh các lực lượng Mỹ – Nhật đóng quân ở phía bắc. Mặt khác, ông ngụ ý rằng Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc gần như vô địch. Một Trung Quốc với quân đội như vậy có thể thắng thế ở Đông Nam Á trước khi người ngoài có thể can thiệp. Thế là sao? Điều chắc chắn đúng là các khả năng “chống tiếp cận” mà PLA đang xây dựng sẽ tỏ ra khó chịu cho bất cứ đối thủ nào của Trung Quốc. Các tư lệnh PLA có thể đổi hướng các vũ khí như các tên lửa chống tàu phóng từ ven bờ về phía hải quân các nước Đông Nam Á trong khi ngăn chặn các nỗ lực can thiệp vào khu vực của Mỹ, Ấn Độ và các cường quốc bên ngoài khác. Số lượng các lựa chọn của Bắc Kinh tăng lên nhiều lần khi sức mạnh quân sự Trung Quốc lớn mạnh.
Nhưng cùng lúc đó, sự tăng cường lực lượng của hải quân và quân đội Trung Quốc vẫn còn là một việc đang được tiến hành, trong khi Bắc Kinh phải đối mặt với rất nhiều thách thức to lớn dọc bờ biển châu Á. Từ bắc tới nam, Trung Quốc phải xoay xở với bế tắc hạt nhân Bắc Triều Tiên, với việc Mỹ tiếp tục đẩy mạnh sự hiện diện ở Nhật Bản, các tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản ở Biển Đông Trung Quốc, nền độc lập thực tế của Đài Loan, mớ bòng bong Biển Đông, các đe dọa nhằm vào tàu thuyền trên Eo biển Malacca, và các lợi ích ngày càng lớn ở Ấn Độ Dương. Không một vị tư lệnh khôn ngoan nào lại phân tán lực lượng dù muốn hay không. Nếu PLA cố gắng làm tất cả mọi thứ, ở khắp mọi nơi, họ có thể phải kết thúc mà chỗ nào cũng chỉ làm được rất ít. Các lực lượng vũ trang của Trung Quốc chỉ có thể thống trị được Biển Đông nếu các tư lệnh sẵn sàng tập trung mọi tài sản của họ tới đó. Nhưng họ làm thế với một rủi ro rất lớn đối với các lợi ích của Trung Quốc ở những nơi khác thuộc “các vùng biển gần”. Đối mặt với rất ít thách thức ở Biển Đen, Nga đã có sự tập trung cao độ chống Georgia, một sức mạnh trên bộ nằm ngay bên cạnh mà họ có thể đè bẹp trước khi người ngoài kịp can thiệp. Bối cảnh chiến lược này sẽ không cho phép Trung Quốc có được sự xa xỉ đó.
Và thứ ba, các lực lượng Mỹ vẫn tiếp tục bám trụ ở Đông Bắc Á, giúp họ tác động đến các sự kiện một cách dễ dàng hơn so với Biển Đen. Như Goldstein đã chỉ ra, thực hiện một hành trình cứu viện tới Georgia sẽ đặt hậu cần Mỹ trước những yêu cầu khắc nghiệt nếu không muốn nói là không thể thực hiện được. Cũng chính xác là các thành trì của Mỹ ở Nhật Bản nằm trong tầm bắn của hàng trăm tên lửa đạn đạo Trung Quốc và các chiến đấu cơ chiến lược. Sức chống đỡ thời chiến của các căn cứ này ngày càng đáng nghi. Thế nhưng, các biện pháp trả đũa luôn có sẵn. Chẳng hạn, các đồng minh đang lắp đặt các hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo trên các tàu chiến Aegis. Chúng có thể tăng cường sức mạnh cho các căn cứ quân sự bằng những cách đơn giản (dù đắt tiền) chẳng hạn như xây dựng các nhà chứa kiên cố cho máy bay và tàu thuyền. Nói tóm lại, các chính khách và tư lệnh hải quân Mỹ có trong tay nhiều lựa chọn hơn so với Trung Quốc ngày nay hơn là với Nga năm 2008.
Tóm lại, sự tương đồng Nga – Georgia có nghĩa như một sự chỉ dẫn cho chính sách của Mỹ về Biển Đông. Goldstein đúng ở chỗ Mỹ không có lợi ích rõ ràng trong những tranh chấp lãnh hải và không nên để bị lôi kéo vào. Nhưng Washington cũng không thể cho phép Bắc Kinh thiết lập quy tắc rằng các nước lớn có thể sửa đổi hay hủy bỏ luật pháp quốc tế bằng cách tán thành. Tự do hàng hải không phải của người Trung Quốc để nước này ban ra hay giữ lại. Nếu nó tách rời khỏi khu vực, để mặc cho Trung Quốc đi đường của họ, Mỹ sẽ có nguy cơ hóa ra mặc nhận trong một tiền lệ nguy hiểm. Nước này có thể để mất quyền tự do thao diễn chiến lược cùng với vị thế là một nước bảo đảm các lợi ích chung toàn cầu.
Goldstein kết luận bài viết của ông bằng cách viện dẫn học thuyết “Cây gậy lớn” của Theodore Roosevelt, kêu gọi chính quyền Obama “dịu giọng” qua “ngoại giao mềm dẻo, thiết thực và kín đáo” ở Đông Nam Á. Đúng là như vậy, “Theodore Roosevelt” là một người tin tưởng nhiệt thành với chính sách ngoại giao đằng sau hậu trường. Nhưng đối với ông ấy, vung cây gậy lớn có nghĩa là khéo xử sự trong khi chẳng nhường gì cả về mặt nguyên tắc. Điều này cũng có nghĩa là ủng hộ chính sách ngoại giao Mỹ bằng nhiều nguồn dự phòng về sức mạnh quân sự, chứng kiến hải trình của “Great White Fleet” (*) năm 1907-1909, một hành động đã được thiết kế để ngăn không cho Đế quốc Nhật tạo ra một khu vực mà họ muốn kiểm soát trên biển ở Tây Thái Bình Dương. Tự do ở các vùng biển là nguyên tắc không thể thương lượng đối với Roosevelt, và điều đó phải được tiếp tục cho đến ngày nay. Cây gậy lớn của ông là một kim chỉ nam tuyệt vời đối với chính sách ngoại giao Mỹ, chứ không phải theo cách mà Goldstein muốn khuyên chính phủ làm theo.
Tác giả: ông James Holmes là phụ tá giáo sư chiến lược ở Trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ. Bài viết này thể hiện quan điểm của riêng tác giả.
Ảnh: Hải quân Mỹ
Trúc An dịch từ The Diplomat
(*) Ghi chú của BTV: “Great White Fleet” là tên của hạm đội chiến đấu Hải quân Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Theodore Roosevelt, do những chiếc tàu chiến này được sơn màu trắng nên có tên “White Fleet”. Những con tàu này có mặt khắp nơi trên thế giới, thường là những chuyến viếng thăm, thể hiện thiện chí của Mỹ, nhưng đôi khi những chiếc tàu này còn hộ tống các viên chức ngoại giao Mỹ, khi đến nói chuyện với những nước “cứng cổ”, có tham vọng bành trướng trên biển. Trên bờ, các viên chức ngoại giao thể hiện thiện chí của Mỹ (củ cà rốt), nhưng ở dưới biển là những chiếc tàu chiến của “Great White Fleet” đang đậu, với ngụ ý rằng, nếu “cứng cổ” thì sẽ bị ăn gậy!
05-10-2011
Quan điểm cho rằng Mỹ nên bỏ mặc Đông Nam Á cho Trung Quốc là đặt không đúng chỗ. Châu Á không phải là một Georgia khác, theo James Holmes.
Vài tháng trước, trên tạp chí Foreign Policy, một đồng nghiệp của tôi là Giáo sư Lyle Goldstein đã so sánh Biển Đông (nguyên văn: Biển Hoa Nam) ngày nay với cuộc chiến Nga – Georgia năm 2008. Tóm lại, ông ấy vẫn giữ quan điểm, rằng Mỹ thật dại dột khi đặt cược uy tín vào một đồng minh chiến lược cấp ba xa xôi và yếu kém, nằm cạnh bên một đất nước hùng mạnh hơn nhiều lần vốn đang thèm khát lãnh thổ và sự phụ thuộc chính trị. Chính quyền Bush đã dồn dập dành cho Tbilisi “sự quan tâm cấp cao và các cố vấn quân sự“, để rồi chỉ thốt ra mỗi tiếng ‘rên rỉ’ khi Moscow ra lệnh cho các lực lượng thiết giáp đè bẹp quân đội Georgia và xâm chiếm phần lớn đất nước láng giềng này. Uy tín của Mỹ đã bị tổn hại nặng nề khi nước này không thể đảo ngược kết quả. Đứng về phía Georgia rõ ràng là một sự thất bại trong việc liều lĩnh chính sách ngoại giao.
Ông Lyle đã vẽ ra một bức tranh u ám. Nếu các nhà lãnh đạo Mỹ chú ý đến lời khuyên của ông, họ sẽ từ bỏ gần như tất cả các cam kết ở Đông Nam Á, nơi mà ông mô tả là một khu vực có tầm quan trọng không đáng kể, cạnh bên một nước Trung Quốc ngày càng hùng mạnh. Ông cho rằng “Đông Nam Á chẳng có chút ý nghĩa nào trong sự cân bằng quyền lực toàn cầu“. Nếu không thì Washington có nguy cơ phải chịu thất bại ngoại giao mới mà không đạt được lợi ích nào có thể hiểu được.
Cũng như chính quyền Bush không có “ham muốn gì khi đánh liều một cuộc xung đột lớn hơn với Moscow về một đất nước thuộc lợi ích chiến lược bên rìa“, chính quyền Obama sẽ không, thực ra là không nên ràng buộc vận mệnh của mình với các nước Đông Nam Á yếu kém. Điều này sẽ thêm vào lời cảnh báo chống lại sự ủng hộ các nước bạn bè nhưng “không quan trọng” vốn đang đấu tranh ở thế bất lợi. Mỹ không nên cố gắng thực hiện các nỗ lực hão huyền nhằm đảo ngược tình hình. Tốt hơn là nên giũ bỏ những vướng bận không cần thiết trong khi hợp tác với Bắc Kinh để chống cướp biển và khủng bố trong khu vực, với hy vọng xây dựng một mối quan hệ tin cậy trên biển.
Nếu đây là một lời khẩn cầu thẳng thắn để Washington tránh bị vướng vào những tranh chấp lãnh hải phức tạp đang gây bất ổn chính trị khu vực, tôi sẽ ủng hộ ngay lập tức. Như người phương Nam chúng ta thường nói, Mỹ không “quan tâm” đến việc ai sẽ kiểm soát đảo, san hô hay đảo đá nào, miễn là cường quốc kiểm soát chúng tôn trọng tự do hàng hải theo đúng luật pháp thông thường và thỏa thuận. Do vậy, vấn đề tranh luận giữa các quan chức Mỹ đó là, mối quan tâm duy nhất của Hoa Kỳ trong chủ đề tranh cãi này là tự do hàng hải đi qua các vùng biển trong khu vực và thấy những cuộc cãi vã về lãnh thổ được giải quyết mà không phải dùng đến vũ lực.
Nhưng vẫn chưa rõ liệu Trung Quốc có tôn trọng luật biển hoặc kiềm chế sử dụng vũ lực hay không. Nước này liên tục tuyên bố “chủ quyền không thể chối cãi” ở các vùng biển và không phận quốc tế nằm trong những đường nào đó trên bản đồ Biển Đông. Trung Quốc cũng nỗ lực ngăn chặn những hoạt động bay, giám sát quân sự, và khảo sát quân sự ở những khu vực chung, như các nước ven biển có thể thực hiện ở “những vùng lãnh hải” của họ.
Vùng lãnh hải này là vành đai biển 12 dặm ngoài khơi, nơi mà chính phủ ở các nước ven biển thực hiện đầy đủ quyền thực thi pháp lý. Các quốc gia ven biển không có quyền thống lĩnh những vùng biển xa hơn, ngay cả khi luật pháp quốc tế cho họ đặc quyền thực thi pháp lý đối với nguồn tài nguyên nhiên nhiên ở vùng biển và đáy biển cách bờ 200 dặm (xa hơn nếu địa hình dưới nước cho phép). Washington hoàn toàn đúng khi chống lại sự xâm lấn lén lút của Trung Quốc dựa trên quyền của các nước đi biển.
Sự tương tự của Biển Đen không làm thay đổi điều này, chủ yếu vì các động lực ở đó hoàn toàn khác biệt so với những gì phổ biến ở Biển Đông ngày nay. Theo tôi, tình huống phải vượt qua ba cuộc kiểm tra về sự tương đồng giữa Nga – Georgia thì mới phù hợp. Thứ nhất, phải đưa một nước lớn đấu với một nước nhỏ về lợi ích ngoại biên của Mỹ. Thứ hai, sự bất đối xứng trong sức mạnh quân sự phải tới mức mà bên mạnh hơn có thể thực hiện một việc đã rồi, chế ngự đối thủ yếu hơn trước khi Mỹ và cộng đồng quốc tế có thể tập trung quyết tâm và vũ lực để can thiệp. Và thứ ba, khoảng cách từ các lực lượng Mỹ tới nơi xảy ra xung đột phải xa tới mức Washington không thể triển khai lực lượng kịp thời để tạo ra một sự khác biệt. Quân đội Mỹ sẽ thiếu các căn cứ ở phía trước để sắp xếp và duy trì vũ khí gần chiến trường. Thật may, Biển Đông hoàn toàn không không đáp ứng bất kỳ cuộc kiểm tra nào như thế này.
Trước tiên, cân nhắc sự chênh lệch về sức mạnh giữa Trung Quốc và các nước láng giềng nhỏ hơn. Rõ ràng là Trung Quốc áp đảo bất kỳ quốc gia Đông nam Á nào trong một cuộc đấu nhau một chọi một, và với sự cách biệt khá lớn. Chẳng hạn, Chính phủ Philippines đã quyết định gia tăng gấp đôi ngân sách quốc phòng của nước này, lên tới 2,5 tỷ USD. Quân đội Mỹ sẽ tiêu tốn cỡ đó vào con tàu sắp tới, tàu khu trục có tên lửa điều khiển, loại Arleigh Burke. Ngược lại, Trung Quốc dành 91,5 tỷ USD trong năm nay, theo các con số chính thức, và con số này có thể ít hơn so với thực tế. Số tiền chi tiêu này nhiều gấp 36 lần ngân sách của Philippines. Một dữ kiện khác: gần đây Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ đã chuyển tàu tuần tra, loại Hamilton, năm 1967, cho phía Philippines. Con tàu tuần tra này đã trở hành niềm tự hào của Hải quân Philippines, thay thế con tàu khu trục hộ tống, được chế tạo cho Hải quân Mỹ thời Đệ nhị Thế chiến. Điều này cho thấy rõ sự yếu kém của Manila trên biển. Không có gì phải ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo Philippines đã phải viện đến hiệp ước phòng thủ chung Mỹ – Philippines với hy vọng dụ dỗ Washington ủng hộ các tuyên bố lãnh hải của họ. Họ cần sự giúp đỡ.
Đơn giản là lực lượng vũ trang Philippines không thể đọ với những hạm đội mà các cơ quan giám sát hàng hải của Trung Quốc triển khai, huống hồ gì những hạm đội viễn dương ở các xưởng đóng tàu mà Hải quân Trung Quốc hiện đang đóng. Giáo sư Goldstein đã đề cập đến phần nhiều thực tế là Bắc Kinh dựa vào “các tàu tuần tra không vũ trang” do các cơ quan phi quân sự triển khai “để thực thi các tuyên bố chủ quyền của nước này ở Biển Đông“. Đây “rõ ràng là một dấu hiệu” rằng Trung Quốc “không muốn leo thang thành xung đột vũ trang“. Tất nhiên, Bắc Kinh không muốn leo thang, biến các tranh chấp lãnh thổ thành xung đột quân sự. Điều mà một chính phủ ôn hòa muốn phát triển mà không có chiến tranh, hoàn thành các mục tiêu đã đề ra mà không gặp phải hậu quả ngoài ý muốn kèm theo chiến tranh là gì? Bằng cách triển khai những con tàu để bảo vệ các tuyên bố của mình, Bắc Kinh ra hiệu thực tế là, đơn giản nước này đang thực hiện chính sách chủ quyền trên biển. Nước này muốn gắn các tuyên bố với tính hợp pháp. Nhưng nếu các nước Đông nam Á kiên quyết phản đối, chắc chắn là Trung Quốc sẽ cử các tàu của Hải quân Trung Quốc tới thực thi ý muốn của họ. Như cựu Thủ tướng Singapore, ông Lý Quang Diệu dự đoán, “đằng sau những con tàu tuần tra nhỏ này là hải quân viễn dương” nếu các cơ quan thi hành luật của Trung Quốc không thể hoàn thành nhiệm vụ.
Điểm rộng hơn là Đông Nam Á giữ vai trò còn quan trọng hơn cả lợi ích cận biên đối với Mỹ. Sự tương phản này hầu như không lộ rõ hơn giữa Biển Đông nằm ở vị trí chiến lược với Biển Đen hẻo lánh. Biển Đen có thể đúng là một vùng biển chết đối với chính sách của Mỹ. Điều này dường như nằm ngoài suy nghĩ của Goldstein, người cho rằng tự do hàng hải “đã trở thành một trụ cột chính trong chính sách của Mỹ tại khu vực” và rằng điểm được cho là mấu chốt này “trên thực tế khá là vô lý”. Nhưng tự do của các vùng biển này không phải là một khái niệm mới lạ nào đó. Nó đã là một trụ cột của chính sách ngoại giao Mỹ trong nhiều thập niên qua. Trang web của Bộ Ngoại giao Mỹ đã chỉ ra một cách hữu ích rằng Chương trình Tự do Hàng hải có từ thời Carter hồi cuối những năm 1970. Kể từ đó, các chính quyền kế tiếp nhau thuộc cả hai đảng chính trị đều từ chối “đồng ý với những hành động đơn phương của các nước khác nhằm hạn chế các quyền và sự tự do của cộng đồng quốc tế về hàng hải, việc bay trên các vùng trời và việc sử dụng các vùng biển khơi có liên quan khác”.
Ngăn cản các quốc gia ven biển khỏi việc vây chiếm các phần của chung toàn cầu, gây hại cho tự do trên biển, chẳng thể là vô lý. Chương trình Tự do Hàng hải “hoạt động trên một một lộ trình bộ tam, bao gồm không chỉ những thể hiện về ngoại giao và sự quyết đoán về hành động của các đơn vị quân đội Mỹ mà còn cả những tham vấn đa phương và song phương với các chính phủ khác trong một nỗ lực nhằm thúc đẩy sự ổn định hàng hải và tuân thủ luật pháp quốc tế. Bộ máy quân sự và ngoại giao Mỹ thường phản đối các tuyên bố quá thể, luôn có một cách để củng cố luật pháp quốc tế theo thời gian nếu không có đối thủ. Bộ Ngoại giao đã nhiều lần đưa ra phản đối với các chính phủ vi phạm. Các đơn vị Hải quân Mỹ đã chủ ý vượt qua những giới tuyến được vẽ sai trên bản đồ, phát đi một thông điệp rằng Washington phản đối những giới tuyến đó.
Nếu tự do hàng hải gần đây mới trở thành một vấn đề nóng bỏng ở Biển Đông thì đó là bởi vì những xác nhận của Trung Quốc về “chủ quyền không thể chối cãi” đối với gần như toàn bộ vùng biển này là một điều khá mới mẻ. Chỉ trong năm 2009, Trung Quốc đã gửi một bản đồ lên Liên Hợp Quốc mô tả các tuyên bố chủ quyền trên biển của họ. “Đường 9 đoạn” được vạch ra trên bản đồ bao gần như trọn Biển Đông. Trong năm 2010, các quan chức Trung Quốc hiển nhiên gọi vùng biển đó là một “lợi ích quốc gia cốt lõi” – một lợi ích mà Trung Quốc sẵn sàng sử dụng vũ lực để giữ gìn. Ngoại trưởng Hillary Clinton đã nhanh chóng phản ứng rằng Washington có một “lợi ích quốc gia” về tự do hàng hải qua các vùng biển trong khu vực. Nhưng bà Clinton chỉ nhắc lại các mục tiêu chính sách của Mỹ đã được định rõ từ hàng chục năm trước.
Thật khó để mà phóng đại tầm quan trọng của Biển Đông đối với chiến lược hàng hải của Mỹ. Chiến lược Phối hợp Hải lực Thế kỷ 21 năm 2007, thông điệp quyền lực nhất của các cơ quan hàng hải Mỹ về cách thức họ nhìn nhận môi trường chiến lược và dự định hưởng ứng điều đó, chỉ rõ khu vực Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương (trong đó có Vịnh Ba Tư) là những sân khấu trung tâm để sử dụng sức mạnh cứng của Hải quân Mỹ.
Biển Đông nằm giữa đường nối giữa hai sân khấu này. Nó là một cửa ngõ không chỉ cho tàu buôn mà còn cả cho các hải quân, tạo thuận lợi về diễn tập chiến lược của các lực lượng Mỹ. Quân đội Mỹ được triển khai chủ yếu dọc các rìa phía đông và phía tây của lục địa Á Âu, ở Bahrain, Nhật Bản và Guam. Các lực lượng vượt biển phải “di chuyển nhịp nhàng” giữa hai đại dương, tập trung đương đầu với các sự kiện bất ngờ nảy sinh ở một hoặc hai nơi này. Nếu bị chặn một lối đi qua Biển Đông, quân Mỹ sẽ buộc phải đi vòng xuống phía nam, quanh các quần đảo Indonesia và Philippines. Sự lanh lẹ của cường quốc hải quân Mỹ ở sân khấu lớn “Indo – Thái Bình Dương” sẽ phải chịu cảnh tương tự, làm giảm tính hiệu quả chiến lược của Mỹ.
Thứ hai, vẫn có một câu hỏi để mở rằng liệu Bắc Kinh có phô sức mạnh để làm mất tinh thần các nước láng giềng nhanh tới mức đặt Mỹ vào một sự việc đã rồi. Goldstein dường như có quan điểm nước đôi về sức mạnh hải quân Trung Quốc. Một mặt, ông mô tả Hải quân PLA là yếu đuối tới mức nước này phải tái bố trí các tàu ngầm cùng cùng nhiều tài sản khác tới Biển Đông nhằm tránh các lực lượng Mỹ – Nhật đóng quân ở phía bắc. Mặt khác, ông ngụ ý rằng Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc gần như vô địch. Một Trung Quốc với quân đội như vậy có thể thắng thế ở Đông Nam Á trước khi người ngoài có thể can thiệp. Thế là sao? Điều chắc chắn đúng là các khả năng “chống tiếp cận” mà PLA đang xây dựng sẽ tỏ ra khó chịu cho bất cứ đối thủ nào của Trung Quốc. Các tư lệnh PLA có thể đổi hướng các vũ khí như các tên lửa chống tàu phóng từ ven bờ về phía hải quân các nước Đông Nam Á trong khi ngăn chặn các nỗ lực can thiệp vào khu vực của Mỹ, Ấn Độ và các cường quốc bên ngoài khác. Số lượng các lựa chọn của Bắc Kinh tăng lên nhiều lần khi sức mạnh quân sự Trung Quốc lớn mạnh.
Nhưng cùng lúc đó, sự tăng cường lực lượng của hải quân và quân đội Trung Quốc vẫn còn là một việc đang được tiến hành, trong khi Bắc Kinh phải đối mặt với rất nhiều thách thức to lớn dọc bờ biển châu Á. Từ bắc tới nam, Trung Quốc phải xoay xở với bế tắc hạt nhân Bắc Triều Tiên, với việc Mỹ tiếp tục đẩy mạnh sự hiện diện ở Nhật Bản, các tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản ở Biển Đông Trung Quốc, nền độc lập thực tế của Đài Loan, mớ bòng bong Biển Đông, các đe dọa nhằm vào tàu thuyền trên Eo biển Malacca, và các lợi ích ngày càng lớn ở Ấn Độ Dương. Không một vị tư lệnh khôn ngoan nào lại phân tán lực lượng dù muốn hay không. Nếu PLA cố gắng làm tất cả mọi thứ, ở khắp mọi nơi, họ có thể phải kết thúc mà chỗ nào cũng chỉ làm được rất ít. Các lực lượng vũ trang của Trung Quốc chỉ có thể thống trị được Biển Đông nếu các tư lệnh sẵn sàng tập trung mọi tài sản của họ tới đó. Nhưng họ làm thế với một rủi ro rất lớn đối với các lợi ích của Trung Quốc ở những nơi khác thuộc “các vùng biển gần”. Đối mặt với rất ít thách thức ở Biển Đen, Nga đã có sự tập trung cao độ chống Georgia, một sức mạnh trên bộ nằm ngay bên cạnh mà họ có thể đè bẹp trước khi người ngoài kịp can thiệp. Bối cảnh chiến lược này sẽ không cho phép Trung Quốc có được sự xa xỉ đó.
Và thứ ba, các lực lượng Mỹ vẫn tiếp tục bám trụ ở Đông Bắc Á, giúp họ tác động đến các sự kiện một cách dễ dàng hơn so với Biển Đen. Như Goldstein đã chỉ ra, thực hiện một hành trình cứu viện tới Georgia sẽ đặt hậu cần Mỹ trước những yêu cầu khắc nghiệt nếu không muốn nói là không thể thực hiện được. Cũng chính xác là các thành trì của Mỹ ở Nhật Bản nằm trong tầm bắn của hàng trăm tên lửa đạn đạo Trung Quốc và các chiến đấu cơ chiến lược. Sức chống đỡ thời chiến của các căn cứ này ngày càng đáng nghi. Thế nhưng, các biện pháp trả đũa luôn có sẵn. Chẳng hạn, các đồng minh đang lắp đặt các hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo trên các tàu chiến Aegis. Chúng có thể tăng cường sức mạnh cho các căn cứ quân sự bằng những cách đơn giản (dù đắt tiền) chẳng hạn như xây dựng các nhà chứa kiên cố cho máy bay và tàu thuyền. Nói tóm lại, các chính khách và tư lệnh hải quân Mỹ có trong tay nhiều lựa chọn hơn so với Trung Quốc ngày nay hơn là với Nga năm 2008.
Tóm lại, sự tương đồng Nga – Georgia có nghĩa như một sự chỉ dẫn cho chính sách của Mỹ về Biển Đông. Goldstein đúng ở chỗ Mỹ không có lợi ích rõ ràng trong những tranh chấp lãnh hải và không nên để bị lôi kéo vào. Nhưng Washington cũng không thể cho phép Bắc Kinh thiết lập quy tắc rằng các nước lớn có thể sửa đổi hay hủy bỏ luật pháp quốc tế bằng cách tán thành. Tự do hàng hải không phải của người Trung Quốc để nước này ban ra hay giữ lại. Nếu nó tách rời khỏi khu vực, để mặc cho Trung Quốc đi đường của họ, Mỹ sẽ có nguy cơ hóa ra mặc nhận trong một tiền lệ nguy hiểm. Nước này có thể để mất quyền tự do thao diễn chiến lược cùng với vị thế là một nước bảo đảm các lợi ích chung toàn cầu.
Goldstein kết luận bài viết của ông bằng cách viện dẫn học thuyết “Cây gậy lớn” của Theodore Roosevelt, kêu gọi chính quyền Obama “dịu giọng” qua “ngoại giao mềm dẻo, thiết thực và kín đáo” ở Đông Nam Á. Đúng là như vậy, “Theodore Roosevelt” là một người tin tưởng nhiệt thành với chính sách ngoại giao đằng sau hậu trường. Nhưng đối với ông ấy, vung cây gậy lớn có nghĩa là khéo xử sự trong khi chẳng nhường gì cả về mặt nguyên tắc. Điều này cũng có nghĩa là ủng hộ chính sách ngoại giao Mỹ bằng nhiều nguồn dự phòng về sức mạnh quân sự, chứng kiến hải trình của “Great White Fleet” (*) năm 1907-1909, một hành động đã được thiết kế để ngăn không cho Đế quốc Nhật tạo ra một khu vực mà họ muốn kiểm soát trên biển ở Tây Thái Bình Dương. Tự do ở các vùng biển là nguyên tắc không thể thương lượng đối với Roosevelt, và điều đó phải được tiếp tục cho đến ngày nay. Cây gậy lớn của ông là một kim chỉ nam tuyệt vời đối với chính sách ngoại giao Mỹ, chứ không phải theo cách mà Goldstein muốn khuyên chính phủ làm theo.
Tác giả: ông James Holmes là phụ tá giáo sư chiến lược ở Trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ. Bài viết này thể hiện quan điểm của riêng tác giả.
Ảnh: Hải quân Mỹ
Trúc An dịch từ The Diplomat
(*) Ghi chú của BTV: “Great White Fleet” là tên của hạm đội chiến đấu Hải quân Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Theodore Roosevelt, do những chiếc tàu chiến này được sơn màu trắng nên có tên “White Fleet”. Những con tàu này có mặt khắp nơi trên thế giới, thường là những chuyến viếng thăm, thể hiện thiện chí của Mỹ, nhưng đôi khi những chiếc tàu này còn hộ tống các viên chức ngoại giao Mỹ, khi đến nói chuyện với những nước “cứng cổ”, có tham vọng bành trướng trên biển. Trên bờ, các viên chức ngoại giao thể hiện thiện chí của Mỹ (củ cà rốt), nhưng ở dưới biển là những chiếc tàu chiến của “Great White Fleet” đang đậu, với ngụ ý rằng, nếu “cứng cổ” thì sẽ bị ăn gậy!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét